So sánh sản phẩm
chọn tối đa 4 sản phẩm

Tin tức


  • Màng lọc MBR - Công nghệ xử lý nước thải

    MBR là viết tắt cụm từ Membrane Bio-Reactor (Màng phản ứng sinh học) có thể định nghĩa tổng quát là hệ thống xử lý vi sinh của nước thải bằng công nghệ lọc màng.
  • Thanh Hóa: Nhiều cơ sở tái chế bao bì gây ô nhiễm môi trường

     

    Thanh Hóa: Nhiều cơ sở tái chế bao bì gây ô nhiễm môi trường

    Trên địa bàn xã Thái Hòa, huyện Triệu Sơn (Thanh Hoá) hiện đang có 28 cơ sở tái chế bao bì đang hoạt động. Các cơ sở này thường xuyên xả thải gây ô nhiễm môi trường khiến người dân địa phương rất bức xúc.

    Thanh Hóa: Nhiều cơ sở tái chế bao bì gây ô nhiễm môi trường

    Điểm tập kết bao bì được chất thành đống hai bên đường.

    Sống chung cùng ô nhiễm

    Qua tìm hiểu, trên địa bàn xã Thái Hòa bắt đầu xuất hiện hoạt động thu gom, tái chế bao bì từ năm 2013. Ban đầu chỉ có 4-5 cơ sở, đến nay, số lượng các cơ sở giặt, tái chế bao bì tại xã lên tới con số 28. Người dân ở đây cho biết, việc tái chế bao bì tại các cơ sở trên địa bàn xã là hoạt động tự phát của các hộ gia đình đã tồn tại qua nhiều năm, phần lớn các cơ sở nằm xen kẽ trong khu dân cư, số còn lại nằm dọc chân đê sông Nhơm. Hệ thống trang thiết bị của các cơ sở tái chế bao bì khá sơ sài, hệ thống phòng cháy chữa cháy không đảm bảo, công nhân không sử dụng bảo hộ lao động.

    Quan sát thực tế tại các cơ sở, chúng tôi nhận thấy, nguồn nguyên liệu của họ chủ yếu là bao bì sản phẩm và bao bì xi măng. Các loại bao bì này được thu gom từ các huyện rồi được chở trực tiếp về các cơ sở để tái chế. Mỗi ngày có hàng trăm lượt xe tải di chuyển về các thôn, xóm để tập kết bao bì gây nên tình trạng sụt lún và mất an toàn giao thông tại nhiều tuyến đường. Sau khi bao bì được tập kết, các cơ sở cho hết vào máy giặt, giặt trong khoảng 15 phút. Từ đó, hàng trăm bao xi măng đen kịt đã được giặt sạch, trở nên trắng tinh, sạch sẽ. Những thứ còn lại là bụi bẩn, cát, bột và nước thải sẽ được các cơ sở cho vào bể lắng lọc rồi xả xuống sông Nhơm. Tuy nhiên, hầu hết các bể lắng ở đây xây dựng tạm bợ, đã quá tải, mất vệ sinh.

    Theo ghi nhận, ngoài việc xả thải ra sông Nhơm gây ô nhiễm môi trường, các cơ sở tái chế bao bì này còn đốt các chất thải rắn ngay tại xưởng khiến khói đen bay ngập trời, gây ảnh hưởng đến các hộ dân xung quanh. Ông N.V.T, một người dân sống ngay cạnh xưởng tái chế bức xúc nói: “Họ hoạt động 9 tiếng mỗi ngày nên điếc tai lắm, nước thải thì xả trực tiếp ra ao nhỏ ngay cạnh nhà tôi đây này. Giờ nhà tôi và người dân ở cả cái xã này phải đi mua máy lọc để dùng chứ nước thải bẩn ngấm hết vào lòng đất rồi”.

    Ông Thiều Đình Oanh, trưởng thôn Thái Phong cũng cho rằng: “Các cơ sở giặt và tái chế bao bì phế liệu tại xã đều hoạt động theo hình thức hộ gia đình nên không có các điều kiện đảm bảo môi trường, xử lý chất thải, nước thải theo quy định”.

    Đã xử phạt nhưng vẫn tiếp diễn

    Trước những tác động xấu đến môi trường của các cơ sở này thì cuối năm 2018 Sở TNMT Thanh Hóa đã tiến hành kiểm tra, lập biên bản xử phạt hành chính 28 cơ sở với số tiền phạt 792 triệu đồng, buộc 21/28 cơ sở dừng hoạt động sản xuất 6 tháng. Nhưng theo người dân địa phương thì chỉ sau một thời gian ngắn, các cơ sở này lại tiếp tục tái hoạt động công khai. Họ vẫn tiếp tục xả thảiđốt rác gây ô nhiễm mặc cho người dân phản đối.

    Về vấn đề bụi, ô nhiễm nước thải của các xưởng tái chế, ông Trịnh Văn An - Phó chủ tịch UBND xã Thái Hòa thừa nhận: Có tình trạng các cơ sở giặt, tái chế bao bì hoạt động gây ô nhiễm như người dân phản ánh. Qua nhiều lần kiểm tra, xã cũng đã nhắc nhở, thậm chí xử phạt hành chính, song tới nay họ vẫn chưa khắc phục. “Trước tình hình trên, năm 2018 chúng tôi cũng đã đề xuất lên huyện quy hoạch một khu vực cho các hộ tái chế bao bì này hoạt động tập trung nhưng đến nay vẫn chưa được phê duyệt. Trước mắt, xã sẽ tiếp tục triển khai kiểm tra, xử lý và có hình thức phạt thật nặng đối với các cơ sở gây ô nhiễm môi trường, còn về lâu dài thì vẫn phải tiếp tục chờ huyện thôi”- ông An phân trần.

    Trong khi đó, bà Nguyễn Thị Xuân - Phó phòng TNMT thuộc UBND huyện Triệu Sơn cho biết: Đơn vị đã nắm được tình trạng các cơ sở tái chế bao bì gây ô nhiễm trở lại. Sắp tới, huyện Triệu Sơn sẽ phối hợp với Sở TNMT Thanh Hóa mời một đơn vị về khảo sát đánh giá thực trạng môi trường tại các cơ sở này. Dựa trên kết quả này, đơn vị sẽ đưa ra công nghệ xử lý nước thải thí điểm tại một vài cơ sở trước. Khi đã có phương án mà các hộ tiếp tục không làm thì phòng TNMT sẽ đề xuất lên huyện đình chỉ hoạt động”- bà Xuân khẳng định.   

  • 32 khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải

    32 khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải
    Lợi ích từ các khu công nghiệp (KCN) là không thể chối cãi khi nó kích thích kinh tế vùng, tăng GDP, giải quyết việc làm... Tuy nhiên, mặt trái của nó là nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường tự nhiên nếu như không có một hệ thống xử lý nước thải hoàn thiện.
    Chỉ tập trung vào thu hút đầu tư
    Với đặc trưng sử dụng nhiều hóa chất độc hại trong quá trình sản xuất ra sản phẩm trong các KCN thì yêu cầu về xử lý nguồn nước thải phải đặc biệt cẩn trọng. Theo các nghiên cứu tác động môi trường của Tổng cục Môi trường, các ngành như công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy… các chỉ số sinh học của nước thải thường vượt nhiều lần ngưỡng cho phép, có thể gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng nếu không được xử lý đúng cách.
    Ngoài ra, với từng ngành sản xuất khác nhau, các hóa chất độc hại trong nước cũng khác nhau, do đó, yêu cầu KCN phải có hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung trước khi xả ra môi trường là bắt buộc.
    Đại đa số các KCN được xây dựng trên các tuyến sông lớn, vừa thuận tiện cho việc lấy và xả nước. Nhưng điều này cũng đồng nghĩa với tăng khả năng gây ô nhiễm diện rộng nếu nước thải từ các KCN không được xử lý mà xả thẳng ra môi trường.
    Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT), đến đầu năm 2020, trong số 274 KCN đang hoạt động, đã có 242 KCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung, chiếm 89%. Tức là còn 32 KCN chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung.
    Hệ quả, hàng loạt con sông bị KCN “bức tử” được người dân liên tục phản ánh. Vụ việc Công ty Cổ phần bột giặt LIX gây ô nhiễm kênh Suối Chợ (thị xã Tân Uyên, Bình Dương) gần đây là một ví dụ.
    Báo cáo của Bộ TN&MT không nêu rõ đã xử phạt các KCN này như thế nào. Nhưng báo cáo lại cho biết tình trạng các KCN đã đi vào hoạt động nhưng chưa hoàn thiện hệ thống xử lý nước thải tập trung, chưa xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường ngày càng cao.
    Bộ TN&MT nhận định, nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do một số địa phương chỉ tập trung thu hút đầu tư, song thiếu đôn đốc, kiểm tra, tăng cường chỉ đạo các chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN đẩy nhanh tiến độ xây dựng cũng như đưa vào vận hành kịp thời hệ thống xử lý nước thải tập trung của KCN. Chưa giám sát chặt chẽ việc xả nước thải của các KCN gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, đặc biệt là nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt phía ngoài hàng rào KCN.
    Ngịch lý nhà máy nước thải dư thừa công suất
    Cũng theo báo cáo từ Bộ TN&MT, có 191/244 KCN có trạm quan trắc tự động, chiếm 78,3%. Có 276 cụm công nghiệp có báo cáo đánh giá tác động môi trường, 160 cụm công nghiệp có hệ thống tách nước mưa và nước thải, 109 cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung, 10 cụm công nghiệp có hệ thống quan trắc tự động nước thải.
    Tổng công suất của các nhà máy xử lý nước thải đang hoạt động đạt hơn 951.330m3/ngày - đêm, với công suất trung bình mỗi nhà máy đang hoạt động đạt 4.000m3/ngày - đêm, trong đó, công suất nhỏ nhất là 200m3/ngày - đêm (tại KCN Cơ khí ô tô TPHCM) và lớn nhất là 50.000m3/ngày đêm (tại KCN Yên Bình, tỉnh Thái Nguyên).
    Tuy nhiên, tổng lượng nước thải thực tế của các KCN trên cả nước là 635.000m3/ngày - đêm còn lượng nước thải được thu gom, xử lý tại các hệ thống xử lý nước thải tập trung trước khi xả ra môi trường là 450.000m3/ngày đêm, tức là mới xử lý được 71% lượng nước thải phát sinh.
    Như vậy, không phải là công suất các nhà máy xử lý nước thải tại các KCN không đáp ứng được nhu cầu, mà trái lại, công tác thu gom nước thải để xử lý không đủ để các nhà máy này hoạt động hết công suất.
    Hệ quả, hiệu suất sử dụng của các hệ thống xử lý nước thải tập trung trên toàn quốc là 48%.
    Trong đó, các KCN tại khu vực Đông Nam bộ có tỷ lệ phát sinh nước thải cao nhất nước (chiếm 50%). Một số địa phương như TPHCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, là những địa phương đi đầu với 100% KCN có lắp đặt thiết bị quan trắc tự động và truyền dữ liệu về Sở TN&MT kiểm soát.
    Tuy nhiên, theo PGS.TS Nguyễn Đức Khiển, chuyên gia về kinh tế môi trường, vùng Đông Nam bộ với toàn bộ các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nơi tập trung các KCN lớn nhưng số lượng KCN có hệ thống xử lý nước thải vẫn đang ở mức trung bình (50 - 60%), hơn nữa, 50% trong số đó vẫn chưa hoạt động hiệu quả.
    Thực tế, đến nay bộ hệ thống quy chuẩn kỹ thuật về quản lý nước thải vẫn chưa hoàn thiện và đang chạy theo thực tế. Điều này phát sinh nhiều khó khăn khi các doanh nghiệp lựa chọn công nghệ xử lý nước thải cũng như chính quyền xử lý sai phạm.